Xã
hội của chúng ta luôn luôn biến đổi không ngừng, phức tạp và theo nhiều chiều
hướng khác nhau mà chúng ta không thể đoán biết trước được vì thế, để xã hội
luôn nằm trong vòng kiểm soát và ổn định chúng ta cần đến các công cụ điều chỉnh
quan hệ xã hội. Bên cạnh pháp luật thì các công cụ khác cũng đóng vai trò to lớn
góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội cũng như góp phần vào việc xây dựng và
thực hiện pháp luật. Trong số các công cụ quản lý xã hội ở Việt Nam thì dư luận
xã hội và phương tiện thông tin đại chúng có tác động quan trọng đến việc xây dựng
pháp luật nước ta hiện nay. Chính vì thế để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này em
xin chọn đề bài số 6 : “ Phân tích sự ảnh hưởng của dư luận xã hội và phương tiện thông tin
đại chúng đối với hoạt động xây dựng pháp luật gắn với việc xây dựng, ban hành
một bộ luật/ luật cụ thể ở nước ta trong những năm qua” .
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.
Khái niệm xây dựng
pháp luật
Để xã hội ổn định và phát triển thì nhà nước cần có các biện pháp để duy trì sự ổn định và
cần pháp luật để đảm bảo việc thực hiện các quy định đó. Một trong những vấn đề
quan trọng của pháp luật đó là định hướng và xây dựng pháp luật.
Hiện nay, hiểu một cách
chung nhất thì “ Xây dựng pháp luật là hoạt động của các chủ thế có thẩm quyền nhằm
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới hoặc sữa đổi, bổ sung văn bản quy
phạm pháp luật theo một trình tự, thủ tục đặc biệt do pháp luật quy định để điều
chỉnh các quan hệ xã hội”.
2.
Khái niệm dư luận
xã hội
Dư luận xã hội là một hiện tượng quan trọng
trong đời sống tinh thần của con người, nó tồn tại trong tất cả các cộng đồng lớn
nhỏ khác nhau của con người như trong
làng, xã, tỉnh...trong một nước hay trên phạm vi một nhóm nước thậm chí trên
toàn thế giới.
Có nhiều ý
kiến khác nhau về khái niệm dư luận xã hội tuy nhiên một cách khái quát ta có
thể hiểu rằng: “ Dư
luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của
các cá nhân, các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước các vấn đề, sự kiện,
hiện tượng mang tính thời sự, có liên quan đến nhu cầu, lợi ích của họ, thu hút
được sự quan tâm của con người và được thể hiện trong các nhận định và hành động
thực tiễn của họ”.
3.
Khái niệm phương
tiện thông tin đại chúng
Các phương tiện thông tin
đại chúng có thể hiểu là các phương tiện được sử dụng để truyền đạt thông tin một
cách đại chúng, rộng rãi, tức là có khả năng đưa thông tin tới đa số đối tượng
để phục vụ mục đích đã được đề ra.
Hiện nay mới sự phát triển
của công nghệ thì có rất nhiều phương tiện thông tin đại chúng như: tạp chí,
báo in, truyền hình, phát thanh, sách, internet, báo điện tử, loa phường, quan
hệ công chúng.... đã và đang góp phần tác
động tích cực đến hoạt động xây dựng pháp luật.
II. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI VÀ PHƯƠNG TIỆN THÔNG
TIN ĐẠI CHÚNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
1.
Ảnh hưởng của dư luận xã hội
Trong bất kỳ một xã hội nào, dư luận xã hội cũng đều
có ảnh hưởng nhất định và trong nhiều trường hợp, còn tác động mạnh mẽ đến các
quá trình chính trị, xã hội như kinh tế, đạo đức, pháp luật, văn hóa, giáo dục…
trong số đó, phải kể đến tới sự tác động, ảnh hưởng của dư luận xã họi đối với
hoạt động xây dựng pháp luật. Ở nước ta hiện nay, sự ảnh hưởng
đó thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, dư luận xã hội
là sự thể hiện lợi ích chung thông quan tiếng nói chung của nhân dân, nên nó là
điều kiện cần thiết để các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ, mở rộng nền
dân chủ xã hội, tích cực tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật. Các tầng lớp
nhân dân là chủ thể rộng rãi của hoạt động xây dựng pháp luật. Hiến pháp của
Nhà nước ta đã khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đồng thời, thiết
lập cơ chế bảo đảm cho việc thực thi quyền lực nhà nước phục vụ cho lợi ích của
nhân dân và luôn nằm dưới sự kiểm soát của nhân dân. Dưới chế độ ta, nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hai hình thức cơ bản là dân
chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Đây là hai hình thức
phù hợp với trình độ nhân dân và xã hội ta hiện nay. Việc các cơ quan chức năng
nhà nước thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân là sự thể hiện sinh động
phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và luôn được phản ánh
trong dư luận xã hội. Mọi hành vi vi phạm, xâm hại quyền dân chủ của nhân dân
trong đó có quyền tham gia hoạt động xay dựng pháp luật, đều bị dư luận xã hội
phê phán và lên án. Điều đó nói lên sự tác động của dư luận xã hội đối với hoạt
động xây dựng pháp luật.
Thứ hai, dư luận xã hội
là nguồn thông tin phản hồi có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực đối với quá
trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản dưới luật. Để có được
các văn bản pháp luật sát thực tế, thể hiện
đường lối, chế độ của nước ta, có tính khả thi cao trước khi xây dựng
hay ban hành các cơ quan lập pháp phải nắm bắt được thực trạng tư tưởng, tâm lý
của các đối tượng xã hội mà văn bản pháp luật đó hướng đến. Mọi chủ trương,
chính sách của pháp luật sẽ khó trở thành hiện thực nếu không được lòng dân,
không được nhân dân ủng hộ. Mọi vướng mắc, lệch lạc trong quá trình triển khai
thực hiện các văn bản pháp luật, do nhiều yếu tố khó lường trước đều được bộc lộ
qua dư luận xã hội. Dư luận xã hội là cơ sở quan trọng giúp các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đưa ra các văn bản, quyết định phù hợp với lòng dân. Dư luận xã hội
có tác dụng phát hiện những thiếu hụt, những khe hở trong các văn bản quy phạm
pháp luật, giúp cho Nhà nước có biện pháp sữa đổi, bổ sung và điều chỉnh một
cách kịp thời các văn bản pháp luật còn khiếm khuyết, tháo gỡ các vướng mắc,
khó khăn phát sinh trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện pháp luật.
Thứ ba, dư luận xã hội
không mang tính pháp lý nhưng nó lại có sức mạnh rất to lớn trong việc định hướng
và điều chỉnh hành vi, hoạt động của các thành viên trong xã hội. Trong hoạt động
xây pháp luật, các cá nhân, nhà chức trách có thẩm quyền, với tư cách chủ thể
xây dựng pháp luật, cần phải biết lắng nghe dư luận xã hội một cách nghiêm túc,
phân tích nội dung của dư luận xã hội một cách khách quan, khoa học để có thể
rút ra được những thông tin, kết luận chính xác về thực trạng của những lichjx
vực quan hệ xã hội điều chỉnh. Nhờ đó, Nhà nước có thể ban hành pháp luật một
cách kịp thời, đồng bộ và hiệu quả; tác động đúng phạm vi, đúng đối tượng cần
điều chỉnh; góp phần tăng cương vai trò và hiệu lực của công tác quản lý nhà nước,
quản lý xã hội bằng pháp luật.
2.
Ảnh hưởng của
phương tiện thông tin đại chúng
Sự hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng
có tác động rất mạnh mẽ và quan trọng tới hoạt động xây dựng pháp luật thể hiện
ở các điểm sau:
Thứ nhất các
phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin tương đối đầy đủ và đa dạng
về các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống chính trị, xã
hội, pháp luật; cung cấp những tri thức, hiểu biết pháp luật cần thiết cho các
chủ thể của xây dựng pháp luật, phản ánh hoạt động tiếp xúc cử tri của các đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; đưa tin nhanh chóng, rộng
rãi tới các tầng lớp xã hội về nội dung, kết quả các kỳ họp của Quốc hội.. Qua
đó, các phương tiện truyền thông tác động tới nhận thức của các chủ thể về tầm
quan trọng của hoạt động xây dựng pháp luật, tạo cơ sở thông tin để các tầng lớp
xã hội tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật.
Thứ hai, các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải
những thông tin về chính sách pháp luật của Nhà nước, các dự thảo văn bản pháp
luật mới, đưa các thông tin đó đến được với đông đảo tầng lớp nhân dân. Các
phương tiện thông tin đại chúng tạo diễn đàn ngôn luận công khai để các chủ thể
của hoạt động xây dựng pháp luật tham
gia trao đổi, phân tích, đóng góp về nội dung, cấu trúc, phạm vi điều chỉnh...
của văn bản pháp luật. Đồng thời, các phương tiện thông tin đại chúng còn có thể
đăng tải kịp thời các thông tin phản hồi, các ý kiến đóng góp của các nhà khoa
học, các tầng lớp nhân dân chó hoạt động xây dựng pháp luật. Bằng cách tác động
đó, thông tin đại chúng giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tập hợp
thông tin, xử lý và tiếp thu có chọn lọc các ý kiến xác đáng phục vụ vho việc sửa
đổi bổ sung và ngày càng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Bằng cách
tác động đó, thông tin đại chúng giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền tập hợp
thông tin, xử lý và tiếp thu có chọn lọc các ý kiến xác đáng phục vụ cho việc sữa
đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, phương tiện thông tin đại chúng có vai trò định
hướng, điều chỉnh quá trình hình thành dư luận xã hội thông qua việc cung cấp
các nguồn thông tin pháp luật xác thực, đăng tải ý kiến chính thức của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về kết quả hoạt động xây dựng pháp luật. Đối với các vấn đề xã hội- pháp luật còn có nhiều quan điểm khác nhau,
thông qua thông tin đại chúng có thể tổ chức các buổi tọa đàm, mời các nhà lãnh
đạo, các chuyên gia, các nhà khoa học có uy tín tham dự để cùng nhau bàn bạc,
trao đổi ý kiến, phân tích thấu đáo các khía cạnh của vấn đề nhằm định hướng, dẫn
dắt dư luận xã hội. Bằng những hoạt động đó, các phương tiện thông tin đại
chúng góp phần tạo lập các luồng dư luận tích cực phản ánh hoạt động xây dựng pháp
luật; góp phần đấu tranh chống lại, đập tan các âm mưu phá hoại, các luận điệu
tuyên truyền, xuyên tạc và bịa đặt của các thế lực thù địch về nội dung, bản chất
hệ thống pháp luật của nhà nước ta; củng cố niềm tin của nhân dân vào bản chất
ưu việt của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
III. MỘT SỐ VÍ DỤ CỤ THỂ TRÊN THỰC TẾ
1.
Ảnh hưởng của dư luận xã hội và phương tiện thông tin đại
chúng đến BLHS 2015.
Là một trong những Bộ luật
quan trọng của đất nước thế nhưng chỉ còn 1 đến 2 ngày nữa là có hiệu lực vào
tháng 1/7/2016 nhưng Bộ Luật Hình sự 2015 đã phải “ Hoãn quyết định hiệu lực
thi hành của Bộ luật” do sau khi dự thảo được đưa ra vấp phải rất nhiều ý kiến
đóng góp trái chiều của các nhà làm luật,
nghiên cứu luật và toàn xã hội.
Dư luận xã hội cùng tòan thể những ai quan tâm
đến lập pháp đã chỉ ra “ rất nhiều lỗi sai “của bộ luật này và tỏ thái độ không
đồng tình quyết liệt đối với dự thảo luật như :
+ Kết quả rà soát do từng cơ quan tiến hành với toàn bộ
đạo luật là khác nhau về nội dung, số lượng các vấn đề sai sót. Tuy nhiên, qua
tổng hợp tại Ủy ban Tư pháp và kết quả làm việc của nhóm liên ngành với lãnh đạo
QH, đến nay đã xác định được khoảng 90 điều, khoản cần chỉnh sửa.
Sai sót trong BLHS 2015 có nhiều loại, nằm cả ở Phần
Chung và Phần Các tội phạm. Hình thức sai sót rất đa dạng: Từ việc thiếu, thừa
chữ, thiếu dấu, đến việc trùng lặp câu chữ, trùng lặp định lượng trong các cấu
thành tội phạm. Có cả những sai sót thể hiện sự không phù hợp giữa Phần Chung
và Phần Các tội phạm trong bộ luật. Ngoài ra, còn có cả sai sót, chưa hợp lý
trong nghị quyết của QH về thi hành BLHS 2015… Ví dụ như Điều 252 về Tội
chiếm đoạt ma túy. Với qui định đã công bố thì khi vi phạm dưới 10kg sẽ
không bị xử lý về tội này. Nếu người nào chiếm đoạt Lá, rễ, thân, cành, hoa,
quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam
thì cũng không có căn cứ rõ ràng để xử lý theo khoản 1 hay khoản 2. Hay tại điều
304 về Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Điều luật này bất cập ở “Nếu
vật phạm pháp có số lượng đúng 31 kilôgam thuốc nổ thì không có qui định xử
lý?” . Tương
tự ở điều 305 về Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Nếu quy định như hiện tại thì số thuốc nổ có số lượng
đúng 31 kilôgam thuốc nổ thì không có qui định xử lý.
+ Nhiều điều luật chung
chung tức nghĩa các điều luật này nếu không có giải thích hoặc hướng dẫn thì
không thể áp dụng được như điều 175 (điều
140 BLHS 1999) quy định về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đã bỏ
tình tiết “bỏ trốn để chiếm đoạt” trước đây quy định tại điểm a khoản 1 điều
140 BLHS. Vậy kể từ ngày 1/7/2016 (nếu bộ luật có hiệu lực thi hành) trở đi cứ
vay mượn, thuê tài sản của người khác rồi bỏ trốn để chiếm đoạt thì không phạm
tội sao?
+ Tên điều luật và nội
dung luật không thống nhất với nhau, ví dụ như Điều 377, BLHS 2015 tên và nội
dung điều luật mẫu thuẫn với nhau. Cụ thế như
sau: Điều 337. Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy
tài liệu bí mật nhà nước. Đọc lên ta thấy, tên của điều luật quy định hai tội với
bốn hành vi: cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài
liệu bí mật nhà nước. Nhưng khoản 1 của điều luật này lại chỉ quy định một tội
với một hành vi “cố ý làm lộ hoặc mua bán bí mật nhà nước”, còn ba hành vi: chiếm
đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước thì không thấy đâu nữa.
+ Nguyên chánh tòa hình sự TAND tối cao Đinh Văn Quế từng
nêu các ví dụ cụ thể như: ngoài điều 249, điều 250, điều 252 Bộ luật hình sự
2015 bị trùng lặp tình tiết định khung hình phạt thì còn điều 337 quy định tội
cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật
nhà nước. Tên của điều luật quy định hai tội với bốn hành vi: cố ý làm lộ bí mật
nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước. Nhưng khoản
1 của điều luật này lại chỉ quy định một tội với một hành vi “cố ý làm lộ hoặc
mua bán bí mật nhà nước”, còn ba hành vi: chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu
bí mật nhà nước thì không thấy đâu nữa. Nếu nghiên cứu kỹ Bộ luật hình sự 2015,
chúng ta còn thấy một số điều luật nếu không có giải thích hoặc hướng dẫn thì
không thể áp dụng được....v.v..
Trên là một số các hạn chế
có thể nói là điển hình nghiêm trọng của
Bộ luật hình sự 2015 đã được dư luận xã hội và các nhà lập pháp nhìn nhận
ra. Nó có thể nói là những điểm hạn chế này đi trái lại quyền và lợi ích của
các chủ thể có liên quan cũng như gây khó khăn trong việc thực hiện các quy định
của Bộ luật do đó nó vấp phải sự đối kháng của cả xã hội rất nhiều trước khi Bộ
luật có hiệu lực.
Các ý kiến của dư luận xã
hội cũng như của các cá nhân, cơ quan tổ chức lại được các phương tiện thông
tin đại chúng phản ánh lại qua nhiều kênh phương tiện như Internet, báo in,
truyền hình, các diễn đàn xã hội.... các
phương tiện thông tin đại chúng đăng tải những thông tin về chính sách pháp luật
của Nhà nước, dự thảo Bộ luật Hình sự 2015, đưa các thông
tin đó đến được với đông đảo tầng lớp nhân dân. Các phương tiện thông tin đại
chúng tạo diễn đàn ngôn luận công khai để các chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật tham gia trao đổi, phân
tích, đóng góp về nội dung, cấu trúc, phạm vi điều chỉnh... của Bộ luật hình sự 2015. Có thể nói dư luận xã hội đã có tác động mạnh mẽ đến
Quốc hội và Ban soạn thảo ra Bộ luật Hình sự 2015, chính vì vậy: Từ việc có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm
2016 thì Quốc Hội đã ra quyết định Hoãn hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình Sự
2015, thay vào đó Bộ luật Hình sự 1999 vẫn tiếp tục có hiệu lực. Còn Bộ luật
Hình sự 2015 sẽ tiếp tục sữa đổi và bổ sung thật hoàn thiện.
Như vậy, qua phân tích ví
dụ ta thấy ảnh hưởng của dư luận xã hội và phương tiện thông tin là rất lớn.
Theo đó những chính sách, quy định của pháp luật đưa ra phù hợp với nguyện vọng,
lợi ích của người dân thì sẽ được ủng hộ
thi hành và ngược lại trái với mong muốn, lợi ích của người dân sẽ không
được thực hiện trên thực tế.
2. Ảnh hưởng của dư luận xã hội và phương tiện thông tin đại
chúng đến Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
Bản tuyên ngôn độc lập nước ta ngày
2/9/1945 đã nêu rõ “Tất cả mọi người sinh ra đều có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.Đặc biệt nền
chính trị càng ngày càng được đặt lên hàng đầu thì quyền con người kéo theo
cũng được quan tâm và coi trọng hơn. Các quyền con người được thế giới thừa nhận,
bảo vệ và được tuyên bố trong nhiều văn kiện quốc tế đồng thời khi mỗi công dân
của một đất nước được đảm bảo các quyền con người, quyền công dân thì đất nước
đó càng ổn định về chính trị cũng như là một đất nước dân chủ.
Tuy nhiên quyền của những
người đồng tính, người lưỡng tính, người chuyển
giớithường được gọi chung là quyền của LGBT thì chưa được đảm bảo
đúng mực. Đây là một
vấn đề gây tranh cãi trên nhiều lĩnh vực quyền con người trong thời gian gần
đây trên thế giới và kể cả ở Việt Nam nhất là vấn đề về hôn nhân.Nói về hôn
nhân theo khoản 1 điều 36 Hiến pháp 2013 quy định:”Nam,nữ có quyền kết hôn,ly hôn.Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến
bộ, một vợ một chồng,vợ chồng bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau”.Hiến pháp chỉ
quy định việc nam,nữ có quyền kết hôn tuy nhiên không nói gì đến việc kết hôn của
những người đồng tính- đây là một điểm hạn chế về quyền con người ở nước ta. Cụ thể khoản 5 Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định “ Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”.
Chính quy định này đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều hiện
nay trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhằm hoàn thiện hơn về Luật
hôn nhân gia đình năm 2014 và tăng cường bảo vệ quyền con người trước khi Luật
hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực thì Viện Hàn Lâm Khoa học- xã hội Việt
Nam và Viện Nghiên cứu xã hội, Kinh tế và Môi trường đã phối hợp điều tra Quan
điểm của công chúng về việc “ Có nên hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính “ kết quả
công bố ngày 26/3/2014 cho thấy:
+ 90% người dân
Việt Nam biết về đồng tính và 62% biết về việc sống chung như vợ chồng giữa hai
người cùng giới tính.
+ 33,7% số người được hỏi ủng hộ việc hợp pháp hóa hôn
nhân cùng giới. Về việc công nhận quyền sống chung như vợ chồng giữa những người
cùng giới tính, số người ủng hộ là 41,2%. Hình thức sống chung cùng giới nên được
hợp pháp hóa theo dạng "kết hợp dân sự" hoặc "đăng ký sống chung
như vợ chồng.
+ Khi được hỏi về một số quyền cụ thể được đề cập đến
trong Luật Hôn nhân – Gia đình mà các cặp đôi cùng giới nên được pháp luật bảo
vệ, có 56% người dân cho rằng cặp đôi cùng giới nên có quyền cùng nhận con nuôi
và nuôi con, 51% ủng hộ quyền sở hữu tài sản chung, 47% ủng hộ quyền thừa kế
tài sản.
+ Đa số người dân cho rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân
cùng giới không ảnh hưởng đến gia đình (72,7%) hay cá nhân họ (63,2%). Xét theo
vùng miền, người miền Bắc và người miền Trung ủng hộ tích cực hơn (78% và 74%)
so với miền Nam (68%).
+ Những
người trẻ từ 18-29 tuổi và những người có trình độ học vấn từ đại học, cao đẳng
trở lên có tỷ lệ ủng hộ hôn nhân đồng giới cao hơn.
+ 90% cho rằng nếu hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính thì sẽ có tác động đến cộng đồng xã hội kể
cả tích cực lẫn tiêu cực. 20% cho rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính sẽ
có tác động tiêu cực đến gia đình họ trong khi 73% số người được hỏi cho rằng
việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới không ảnh hưởng đến gia đình hay cá nhân họ.
Cuộc
điều tra quốc gia lần đầu tiên được thực hiện tại 68 xã, phường thuộc 8 tỉnh,
thành phố tại Việt Nam gồm: Hà Nội, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Đắk Lắk,
TP.HCM, An Giang, Sóc Trăng với sự tham gia của 5.300 người dân.
Như vậy, theo như điều tra thì
quan điểm của công chúng, dư luận xã hội đa số đồng thuận việc cho phép hôn
nhân giữa những người đồng tính.
Bên cạnh đó, các phương
tiện thông tin đại chúng như báo chí, internet đăng tải các hình ảnh của những
buổi lễ tổ chức một đám cưới theo hình thức truyền thống đối với các cặp hôn
nhân Đồng tính như một cặp đồng tính ở
Hà Tiên vào tháng 5/2012; ngày 17/5/2013 10 cặp đôi đồng tính tổ chức “ đám cưới
“ tập thể ở Hà Nội với phương châm “ yêu là cưới”....... bên cạnh các ý kiến
trái chiều thì các hình ảnh này được đông đảo người dân có hiểu biết cao ủng hộ
họ, tôn trọng quyền được sống, yêu thương và hạnh phúc của những người đồng giới.
Qua đó tác động tích cực đến dư luận xã
hội và các cơ quan Nhà nước.
Do chịu sự tác động của dư luận xã hội và phương tiện
thông tin. Sự phù hợp với nguyện vọng đại đa số người dân vào chiều ngày 19/6/2014 Quốc hội đã chính thức thông qua Dự thảo Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014 ( có hiệu lực
ngày 1/1/2015) với 79.52 % số phiếu tán thành trong đó tại khoản
2 Điều 8 dự thảo luật có quy định “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những
người cùng giới tính”. Tuy không thừa nhận về mặt pháp luật nhưng pháp luật đã không cấm hôn nhân đồng
tính tức là thừa nhận họ vẫn có thể chung sống với nhau như vợ chồng trên thực
tế mà không bị ngăn cản, cấm đoán như xưa. Quy định như vậy vừa phù hợp
với đại đa số người dân ủng hộ, mặt khác đây là khía cạnh khá mới do văn hóa của
nước ta nên còn khó để công nhân hôn nhân giữa những người đồng tính cũng phù hợp
với những người phản đối. Tuy nhiên không thể phủ nhận sự tiến bộ của Nhà nước
ta về vấn đề này và đóng góp vào quy định này không thể không nhắc đến tầm quan
trọng của dư luận và phương tiện thông tin đại chúng vì nó đã đi đúng hướng theo mong muốn, nguyện vọng
của đại đa số người dân thì sẽ được pháp luật công nhận và bảo vệ.
KẾT THÚC
Quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật là một trong những việc bắt
buộc phải có đối với một Quốc gia, một nhà nước nhất định. Bên cạnh các yếu tố
khác đóng vai trò quan trong việc định
hướng xây dựng và thực hiện pháp luật thì dư luận xã hội và phương tiện thông
tin đại chúng có tác động mạnh mẽ nhất đến
việc xây dựng và thực hiện các bộ luật. Dư luận xã hội, phương tiện thông tin đại
chúng cùng với những yếu tố khác đều có ý nghĩa tích cực giúp xây dựng các văn
bản phù hợp với ý chí của Nhà nước, phù hợp với nguyện vọng của đa số toàn thể
nhân nhân và góp phần xây dựng nhà nước
ta tiến bộ, công bằng, dân chủ và văn minh.