MỞ BÀI
Trong cuộc sống muôn hình vạn trạng,
bất kì một sự vật, một hiện tượng tồn tại nào
cũng là một thể thống nhất, dính kết giữa hai
mặt chất và lượng. Chất và lượng tuy là hai phương diện khác nhau,
cùng song song tồn tại khách quan trong một sự vật một
hiện tượng, thế nhưng chúng lại không tách rời nhau mà thậm chí ngược lại,
chúng tác động lẫn nhau, biện chứng cho nhau, cái này kéo theo cái kia như một hệ
quả hiển nhiên, tất yếu. Mặc định lượng thay đổi tất yếu sẽ kéo
theo sự chuyển hóa về chất, đồng thời chất mới sẽ tác động trở lại đối với
lượng. Để tìm hiểu sâu về vấn đề trên em xin chọn đề tài 3:”
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại và vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn”. Để khẳng định cho điều vừa nói trên, ta có thể
lấy một ví dụ điển hình rất thức tế trong bước ngoặt lịch sử việt nam
để chứng minh, đó chính là cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945- một dấu son nổi bật
tạc trên trang văn lịch sử hào hùng của dân tộc việt.
NỘI DUNG
I.
NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG SỰ
THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN TỚI SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
1. Định nghĩa phạm trù chất và lượng
Chất là một
phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng;
là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật,
hiện tượng.
Lượng là một phạm trù triết học
dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về các phương diện:
số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các
quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
cũng như của các thuộc tính của nó.
Chất
và lượng là hai phương diện khác nhau của sự vật, hiện tượng khác nhau của cùng
một sự vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên. Hai phương diện
đó đều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong
nhận thức về sự vật chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này đóng
vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
2. Quan hệ biện chứng giữa
lượng và chất
· Chất và lượng luôn thống nhất hữu cơ với nhau
Bất kỳ chất nào cũng có một lượng nhất định, bất kỳ lượng nào cũng là
lượng của một chất nhất định. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn
nhau một cách biện chứng.
Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn đến sự
chuyển hóa về chất của sự vật, hiện
tượng.
· Chất và lượng là hai mặt đối lập nhau
Chất tương đối ổn định còn lượng thường
xuyên thay đổi.
Sự biến đổi có thể xảy ra theo hai hướng
: sự tăng lên hoặc giảm đi về lượng dẫn đến sự biến đổi ngay hoặc thay đổi dần
dần về chất.
Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng
bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất và ngược lại. Ở một
giai đoạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi căn bản về
chất người ta gọi đó là độ.
· Độ
là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và
chất, là khoảng giới hạn mà
trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện
tượng và chưa chuyển hóa thành sự vật hiện tượng khác.
· Điểm nút là
một phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại
đó sự
thay
đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Sự thay đổi về lượng khi
đạt tới điểm nút, với những điều kiện xác định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của
chất mới.
· Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thay đổi căn bản về
chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của
chất đó gây nên; là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời,
đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong
quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.
· Sự biến đổi về chất tác động trở lại
biến đổi về lượng: khi chất mới ra đời,
nó
quy định quy mô, mức độ và nhịp độ phát triễn của lượng mới.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
của quy luật chuyển hóa về sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
Bởi bất kì sự vật hiện
tượng nào cũng có hai phương diện chất và lượng tồn tại trong tính
quy định, tác động biện chứng và chuyển hóa lẫn nhau. Do đó trong nhận thức và
thực tiễn chúng ta cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu trên,
tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.
Do những sự thay đổi về lượng của sự vật hiện
tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa thành những thay đổi về chất và ngược lại,
cho nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích hoàn cảnh cụ
thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất; bên cạnh
đó có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của
sự vật, hiện tượng.
Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới
những biến đổi về chất của sự vật hiện tượng với điều kiện lượng phải được tích
lũy tới giới hạn điểm nút, vì lẽ đó trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục
tư tưởng nôn nóng tả khuynh, đồng thời phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu
khuynh trong công tác thực tiễn.
Vì bước nhảy của sự vật hiện tượng là hết sức
đa dạng, phong phú, do vậy, trong nhận thức và thực tiên cần phải có sự vận
dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, hoàn
cảnh, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt hơn, trong đời sống xã hội, cần phải nâng
cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ
lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất.
II. VẬN DỤNG NỘI DUNG VÀ Ý
NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG VÀ CHẤT VÀO VÍ DỤ: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM, QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ VÀ SỰ
THÀNH CÔNG CỦA CUỘC TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG 8/1945
1.
Quá trình chuẩn bị
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời tháng 2/1930. Từ
đó phong trào đấu tranh của nhân dân ta đã có một chính đảng lãnh đạo.
Tiếp theo đó là sự thành lập của các tổ chức chính trị-xã hội khác như Đoàn
thanh niên cộng sản Đông Dương(1931), Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ(1929)-
tiền thân của công đoàn việt nam và một số tổ chức khác, góp
phần vào việc tuyên truyền lý tưởng cách mạng cho đông đảo quần chúng ở nhiều
giai tầng trong xã hội .
+
Giai đoạn 1930-1931
Trước tình hình thế giới và trong nước đầy biến
động, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời nêu cao hai khẩu hiệu: “ Độc lập dân tộc,
Người cày có ruộng”. Đánh đúng vào nhu cầu, ước nguyện của đông đảo quần chúng.
Cho nên các phong trào đấu tranh diễn ra rộng khắp trên cả nước, thu hút được
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Mở đầu là hàng loạt cuộc đấu tranh của
công nhân các nhà máy xi măng Hải Phòng, dệt Nam Định, Hãng dầu Xôcôni (Sài
Gòn), đồn điền cao su Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một). Tiếp đến là các cuộc đấu tranh
của 3.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, của 4.000 công nhân nhà máy dệt
Nam Định (tháng 4 - 1930), của nhà máy xe lửa Dĩ An, nhà máy diêm, nhà máy cưa
Bến Thủy, nhà máy Ba Son, khu mỏ Mông Dương.. Tiểu biểu là cuộc biểu tình của
nhân dân Huyện Hưng Nguyên (Nghệ An). Mặc dù cuộc khởi nghĩa đã bị thực dân
Pháp đàn áp dã man song cũng không làm dập tắt được phong trào. Cao trào cách
mạng 1930-1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ- Tĩnh là cuộc tập dượt lần một cho
sự thắng lợi của CMT8 với nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc, đem lại một
tiếng vang lớn trên toàn đất Đông Dương, tăng thêm ảnh hưởng của Đảng Cộng Sản
trên các xứ thuộc địa.
Cao trào 1930-1931
với đỉnh cao Xô Viết Nghệ Tĩnh
+ Giai đoạn
1936-1939
Phong trào dân chủ
1936-1939 với các cuộc đấu tranh tiêu biểu : đấu tranh đòi quyền tự do, dân
sinh, dân chủ; đấu tranh nghị trường, báo chí..... Tiêu biểu là phong trào Đông
Dương đại hội ( 8 - 1936 ). Đảng phát động quần chúng, hội thảo đưa yêu sách
gửi lên phái đoàn điều tra Pháp chuẩn bị sang Đông Dương. Năm 1936, ở Nam Kì có
600 Ủy ban hành động được thành lập và phân phát truyền đơn, báo chí, tổ chức
mít tinh, hội thảo, đưa yêu sách dân sinh, dân chủ. Tháng 9 - 1936 ở Bắc Kì và
Trung Kì thì các Ủy ban cũng nối tiếp nhau ra đời. Phong trào này đã có ý nghĩa
lịch sử vô cùng to lớn, mở rộng lực lượng của mặt trận dân chủ, vạch trần chính
sách phản động thuộc địa của thực dân, tay sai và đấu tranh đòi quyền dân chủ
cho Đông Dương, là cuộc tập dượt lần hai trước sự thành công quyết định của
cuộc cách mạng tháng 8.
+ Giai đoạn 1939-1945
Sau hội nghị lần VI và VIII, ngọn cờ giải phóng
dân tộc được dâng cao. Trung ương Đảng, chính phủ, và
chủ tịch Hồ Chí Minh đã gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho khởi nghĩa từng phần, tiểu
biểu là cao trào phá kho thóc Nhật,… và tổng khởi nghĩa tháng Tám. Ngày 22/12/1944, Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập do Đại tướng Võ Nguyên
Giáp chỉ huy. Ngày 9/3/1945, Nhật tiến hành đảo chính Pháp và đây là điều kiện
thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa từng phần từ tháng 3 đến giữa tháng 8/1945. Đây
là cuộc tập dượt cuối cùng cho CMT8. Cao trào phá kho thóc Nhật, giải quyết nạn
đói.
+
Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945
Tình hình thế giới và
trong nước có nhiều biến chuyển, Nhật đầu hàng Đồng Minh không điều kiện, thời
cơ chín muồi cho tổng khởi nghĩa đã đến. Cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra trong
vòng 15 ngày và dành được thắng lợi hoàn toàn trên địa bàn cả nước.
Cuộc biểu tình của nhận dân ở Bắc Bộ
Phủ, Hà Nội ngày 19/8/1945
Chiều 30/8/1945, vua
Bảo Đại tuyên bố thoái vị trước toàn thể nhân dân, chế độ phong kiến Việt Nam
sụp đổ. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây là
ngày hội non sông, mãi đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi
bằng vàng, đánh dấu sự chuyển mình của đất nước. Bác Hồ đọc tuyên ngôn
mừng ngày độc lập cùng với sự góp mặt đông đảo của toàn thể nhân dân Việt Nam.
2. Phạn trù Lượng và Chất thể
hiện trong ví dụ trên
Bây giờ chúng ta sẽ nhìn nhận ví dụ trên qua
góc nhìn của quy luật chuyển hóa giữa chất và lượng như sau:
Chất ban đầu chúng ta cần xác định, đó chính là
nước Việt Nam trong thời điểm trước năm 1945 là nước nửa thuộc địa nửa phong
kiến, chịu sự áp bức của “một cổ đôi tròng”. Nhân dân ta trong
cảnh lầm than, chịu hai tầng áp bức. Nhân dân không có được những quyền cơ
bản của con người, cũng chưa có một tổ chức nào đại diện cho ý nguyện của họ
cả.
Lượng ở đây được thể hiện ở nhiều dạng:
• Một là sự phát triển
của phong trào cách mạng ở nước ta, thể hiện qua các cuộc đấu tranh dưới nhiều
hình thức như trên. Sự gia tăng về lượng chính gia tăng các sự kiện đấu tranh
của nhân dân và quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền qua các giai
đoạn 1930-1931, 1936-1938, 1939-1945. Các phong trào tăng lên cả về số lượng
lẫn chất lượng (quy mô, tổ chức, thành phần tham gia). Lượng tăng dần và giai
đoạn tăng vọt về lượng chính là giai đoạn 1939-1945 cùng với sự phát triển của
khởi nghĩa từng phần.
• Hai là sự thành lập
của các tổ chức chính trị xã hội, các đội tuyên truyền về cách mạng cho toàn
thể nhân dân, làm cho nhân dân có nhận thức đúng đắn về cách mạng và làm tăng ý
thức cách mạng của họ, xây dựng được mặt trận thống nhất dân tộc. Nổi bật nhất
là vai trò của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương đóng vai trò
tổ chức và lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám. Đảng có đường lối cách mạng đúng
đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và
thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự
chuẩn bị tích cực, chu đáo về mọi mặt chính trị, quân sự… Đảng đã xây dựng được
một lực lượng chính trị hùng hậu; từng bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân, được nhân dân nuôi dưỡng và đùm bọc, có chỗ đứng chân ngày càng vững chắc
trong căn cứ địa cách mạng, giữ vai trò nòng cốt, xung kích, hỗ trợ cho quần
chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là điều
kiện cơ bản nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
• Ba là những yếu tố
khách quan thuận lợi trong thời điểm này, đúng với những gì mà học thuyết
Mac-Lê Nin đã chỉ ra: Trên thế giới phe phát xít đã suy yếu, kiệt quệ làm cho
phát xít Nhật ở Đông Dương như rắn mất đầu, hoang mang tột độ. Lực lượng
quân Đồng minh chưa kịp vào nước ta làm nhiệm vụ giải giáp vũ khí quân đội Nhật
theo thỏa thuận tại hội nghị Ianta. Lực lượng trung gian đã ngả hẳn về phía
cách mạng, cùng với đó đảng và nhân dân ta đã sẵn sàng hành động, kiên quyết hy
sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Nhờ vậy mà cuộc tổng khởi nghĩa của chúng ta
giành được tháng lợi nhanh chóng và ít đổ máu.
• Bốn là sự đấu tranh
gian khổ và anh dũng của biết bao nhiêu Đảng viên vàquần chúng cách mạng. Hồ
Chí Minh nói: "Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự,
đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập,
đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ, và trăm nghìn đồng chí khác đã
đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết,
lên trước hết. Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ
đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc. Các đồng chí ấy đã vui vẻ
hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân
tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên
cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như
ngày nay”.
Qua 4 ý trên về sự biểu
hiện của lượng, đây cũng chính là các yếu tố mang lại thành công cho Cách mạng
tháng 8/1945. Sự tăng dần về lượng dần dần sẽ dẫn đến sự thay đổi
về chất.
3.
Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất trong ví dụ trên
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một
thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà
tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự vận động và thành công của cách mạng
tháng 8/1945 cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Độ ở đây chính là cả quá trình chuẩn bị cuộc
tổng khởi nghĩa , có sự thay đổi rõ rệt về lượng nhưng chưa làm thay đổi về
chất vì nước ta thời điểm đó vẫn là nước nửa phong kiến nửa thuộc địa.
Điểm nút chính là thời điểm chín
muồi để thực hiện cuộc tổng khởi nghĩa. Do đã hội tụ đầy
đủ những
yếu tố thuận lợi, tất yếu về cả chủ quan lẫn khách quan như trên. Từ sự tăng lên về lượng đã đến lúc để
thay đổi về chất. Cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 lật đổ chính quyền nữa thực
dân nữa phong kiến của triều đình bù nhìn nhà Nguyễn và thực dân pháp,
thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (2/9/1945). Đây chính là bước nhảy,
một bước nhảy lớn trong cả quá trình chuẩn bị tổng khởi
nghĩa – một quá trình thể hiện rõ mối quan hệ biện chứng giữa chất và
lượng. Chất mới được sinh ra sau
quá trình chuyển hóa giữa lượng và chất đó chính là nhà nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa. Nước Việt Nam bây giờ là một nước Cộng hòa, độc
lập, có chính quyền riêng, không phải phụ thuộc vào ai, quyền lực là của nhân
dân. Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là của dân, do dân và vì dân. Bây giờ,
nhân dân lao động đã có những quyền xứng đáng được hưởng, họ đã có nhà nước là
tổ chức thực hiện ý nguyện của mình.Trong ví dụ này, ta thấy được rõ mối quan
hệ thống nhất không thể tách rời được của hai yếu tố là lượng và chất. Chất cũ-nước
Việt Nam nữa phong kiến nữa thuộc địa đã thúc đẩy
quá trình đấu tranh của nhân dân ta, dẫn đến sự thay đổi ngày càng lớn về mặt
lượng và đến thời điểm tất yếu, sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất- đó là sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nếu không có sự
thay đổi về lượng – nghĩa là không có sự chuẩn bị tổng khởi nghĩa thì sẽ không
bao giờ xày ra việc CMT8 thắng lợi và sự ra đời của một nhà nước mới. Và nếu
không có sự biến đổi về chất thì sự tăng lên về lượng cũng không có ý nghĩa gì,
quá trình chuẩn bị sẽ là vô ích.
Cho nên
sự tác động qua lại này là tất yếu phải xảy ra và hai
yếu tố này
có sự thống nhất chặt chẽ, không thể tách rời.Chất mới ra đời có sự tác động
trở lại tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện như: làm thay
đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển. Cụ thể
là: Cách mạng Việt Nam đã bước qua trang sử mới. Nhà nước riêng của chúng ta
được hình thành, có chủ quyền quốc gia, chúng ta có thể danh chính ngôn thuận
tuyên bố với thế giới về chủ quyền dân tộc, đấu tranh chính diện với các thế
lực thù địch trên cả 3 mặt trận là quân sự, chính trị, ngoại giao. Cách mạng
Việt Nam đã chuyển sang một quy mô, trình độ mới, yêu cầu một sự phát triển cao
hơn về mọi mặt. Điều này chính là sự thúc đẩy lượng mới biến đổi và phát triển.
Để dẫn đến kết quả cuối cùng là chúng ta đã hoàn toàn thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống hai cường quốc lớn mạnh
hàng đầu thế giới là thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ,
giành độc lập và thống nhất đất nước năm 1975.
Tuy nhiên trong quá
trình này cũng có xuất hiện những tư tưởng nôn nóng tả khuynh, lượng chưa tích
đủ, chưa đến điểm nút thích hợp mà đã thực hiện bước nhảy, như phong trào Xô
Viết Nghệ - Tĩnh, thời cơ và sự chuẩn bị chưa chu đáo, dẫn đến chính quyền chỉ
dành được ở phạm vi hẹp, nhanh chóng bị đàn áp, gây tổn thất nặng nề cho cách
mạng, cũng giống như các cuộc khởi nghĩa thời trước đó cũng thế ( khởi nghĩ
Hương Khê, Yên Thế, Bãi Sậy…). Mặt khác lại có những tư tưởng bảo thủ chỉ quan
tâm đến quá trình tích lũy về lượng mà không biết đến sự biến đổi về chất dẫn
đến đánh mất thời cơ tốt để thực hiện bược nhảy mà tất yếu phải có. Đó chính là sự mẫu thuẫn cơ bản của mối quan hệ biện chứng giữa chất và
lượng.
Tóm lại qua ví dụ trên cho ta thấy
rõ ràng mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng. Trong cả
quá trình nêu trên, Đảng ta, dưới sự lãnh đạo của vị lãnh tụ Hồ
Chí Minh vĩ đại đã đánh giá đúng sự thống nhất của hai mặt lượng và chất và tầm
quan trọng ngang nhau của hai yếu tố đó để vận dụng vào trong quá trình tổng
khởi nghĩa dành chính quyền, nên đã giành được
thắng lợi vẻ vang. Bên cạnh đó nhờ hiểu được mặt đối lập của
mối quan hệ để vận dụng và khắc phục được những khó khăn, làm cho
thắng lợi diễn ra nhanh hơn và giảm thiểu được nhiều xương máu nhất.
KẾT THÚC
Qua bài viết này chúng ta thấy rõ được
mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng. Mối quan hệ này hiện hữu rất nhiều
trong các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tu duy. Hiểu được quy luật
biến đổi này là chúng ta đã hiểu được một trong những phương thức cơ bản, phổ
biến của các quá trình vận động của sự vật hiện tượng xung quanh ta và dễ dàng
áp dụng nó vào cuộc sống của mình để có được những kết quả như mong muốn.