Quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về tạm giam và việc hoàn thiện quy định này

MỞ BÀI

Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta quy định nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau phù hợp với mục đích của từng giai đoạn khác nhau. Trong đó gồm có những biện pháp nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành  vi bỏ trốn hoặc  có hành vi gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án. Đề tìm hiểu về một trong số biện pháp trên em xin chọn đ8: Quy định của  bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về tạm giam và việc hoàn thiện quy định này.

Đầu tiên, để hiểu như thế nào là tạm giam thì ta nên tìm hiểu thế nào là biện pháp ngăn chặn, theo cách hiểu chung thì “ Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố nhằm ngặn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”.
Như vậy, biện pháp ngăn chặn là những biện pháp mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để bảo vệ thi hành án.
Tại điều 79 BLTTHS 2003 đã chỉ ra các biện pháp ngăn chặn cụ thể gồm có: bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,  bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Như vậy, tạm giam được hiểu là một trong những biện pháp ngăn chặn quy định trong luật tố tụng hình sự.
Do đó theo cách hiểu chung của nhà làm luật thì “ Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, viện kiệm sát, tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.”
So với các biện pháp khác thì tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách li với xã hội một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền của công dân do đó trong trường hợp đặc biệt mới nên áp dụng biện pháp này.
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự. Vì vậy, ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn có mục đích riêng nhằm  bảo đảm thực hiện tố tụng của cơ quan áp dụng.
Ví dụ: Việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan điều tra có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào khi nào mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần. Hoặc  việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm bảo đảm cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được thuận lợi.
Những quy định về tạm giam được quy định cụ thể tại các Điều 88, Điều  89, Điều 90... và rải rác trong BLTTHS 2003, sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu về nội dung chính được quy định về tạm giam như sau.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người không phải là bị can, bị cáo thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam, không ai có quyền làm trái quy định này.
Khoản 1 Điều 88 BLTTHS năm 2003 quy định những trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giam như sau:
Trường hợp thứ nhất: Điểm a, khoản 1 Điều 88 quy định “ Bị can, Bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng”.  Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà theo quy định của Bộ luật hình sự, mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình ( tội phạm đặc biệt nghiêm trọng ) hoặc phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù ( tội phạm rất nghiêm trọng ).  Tuy nhiên biện pháp tạm giam trong trường hợp này cần thỏa mãn đồng thời hai điều kiện
+ Người thực hiện tội phạm là người đã bị khởi tố bị can hoặc người đã bị thẩm phán ra quyết địh đưa vụ án ra xét xử với tư cách là bị cáo. Điều kiện này  cho thấy, đối tượng của tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo mà thôi.
+ Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng. Tạm giam là một biện pháp có tính chất nghiêm khắc nhất, hạn chế quyền tự do của người phạm tội do đó nó cũng chỉ áp dụng cho những tội gây nguy hiểm cao cho xã hội.
Trường hợp thứ hai: Điểm b, khoản 1 Điều 88 quy định “ Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc  phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.” Việc tạm giam trong trường hợp này cần thỏa mãn 3 điều kiện như sau:
+  Người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo.
+ Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm. Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên hai năm tù. Trong một điều luật có nhiều khoản thì phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt trên hai năm tù có thể tạm giam, phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt tù từ hai năm trở xuống thì không được tạm giam.
+ Có căn cứ để cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định được điều kiện này cần phải căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc.
Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam như sự đề phòng bỏ lột tội phạm. Tuy vậy, không phải tất cả các đối tượng thỏa mãn 3 điều kiện trên sẽ bị tam giam vì người phạm tội thì đa dạng, chúng ta còn phải xem xét đến độ tuổi, sinh lý, điều kiện cụ thể của từng đối tượng để áp dụng các biện pháp ngăn chặn phù hợp vừa để hợp tình vừa đúng pháp luật.
Tại khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2003 quy định: “Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.”
Trừ đi những trường hợp trên vì đó là những tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia, bí mật quốc gia, phải tạm giam họ vì nếu không rất dễ bị lộ ra ngoài ảnh hướng xấu tới sự sống còn của đất nước. Bị can, bị cáo thuộc khoản này đã được Nhà nước  “nhân văn” áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhẹ hơn nhưng vẫn lỳ lợm, cứng nhắc có ý định bỏ trốn và chống lại người thi hành công vụ, gây cản trở điều tra thì sẽ áp dụng biện pháp tạm giam nhằm răn đe tội phạm, bảo đảm cho vụ án được tiến hành đúng tiến độ, tránh bỏ lọt tội phạm.
BLTTHS 2003 không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam mà chỉ quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung. Điều 79 BLTTHS 2003 quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bao gồm:
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm.
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
- Để đảm bảo thi hành án.
Trong số các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn kể trên, căn cứ “để kịp thời ngăn chặn tội phạm” chỉ áp dụng cho các trường hợp bắt người phạm tội quả tang theo khoản 1 Điều 82 hoặc bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, không để tội phạm xảy ra hay không để người phạm tội kết thúc hành vi phạm tội của mình, gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Căn cứ này không thể là căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam vì đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là bị can, bị cáo, hành vi phạm tội của họ là hành vi đã được thực hiện trong quá khứ. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam bao gồm:
+ Căn cứ thứ nhất: Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thể hiện qua việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm có thể bỏ trốn, tiêu hủy, làm giả hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, bàn bạc nhau trốn tránh pháp luật, mua chuộc, dụ dỗ, cưỡng ép, khống chế người làm chứng, người bị hại… gây khó khăn phức tạp cho việc xác định, làm rõ sự thật khách quan vụ án. Trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử có thể áp dụng căn cứ này để tạm giam.
+ Căn cứ thứ hai: Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.Căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội có thể được thể hiện qua các yếu tố phản ánh về nhân thân của các bị can, bị cáo: bị can, bị cáo là những phần tử xấu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, là những tội phạm có tính chất chuyên nghiệp, côn đồ, hung hãn coi thường pháp luật; bị can, bị cáo có hành vi đe dọa trả thù người làm chứng, người bị hại và sự đe dọa đó có khả năng trở thành hiện thực.
+ Căn cứ thứ ba: Để đảm bảo thi hành án. Khi cần đảm bảo thi hành án, tùy theo tính chất cụ thể của từng vụ án, tùy theo nhân thân của người bị kết án, Tòa án có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn thích hợp trong đó Tòa án có thể sử dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án, còn nếu có đủ cơ sở cho rằng bị cáo sẽ không bỏ trốn, không gây cản trở khó khăn cho việc thi hành án thì không cần áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam mà chỉ cần áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn.
Để đảm bảo sự chặt chẽ của pháp luật và cũng bởi vì tạm giam là một biện pháp có tính nghiêm khắc cao nên chỉ những chủ thể có thẩm quyền được nhà nước cho phép mới được áp dụng biện pháp này. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giam Khoản 3 Điều 88 quy định: “Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành…”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS 2003, những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
- Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp;
- Chánh án, Phó chánh án TAND và TAQS các cấp;
- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC; Hội đồng xét xử;
- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường hợp này, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Như vậy, thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam được quy định cho nhiều cơ quan với nhiều chủ thể khác nhau tùy thuộc vào các giai đoạn tố tụng. VKS với chức năng là cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát hoạt động này, đặc biệt với lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Hướng dẫn về việc phê chuẩn lệnh tạm giam trong trường hợp đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can ( khoản 3 Điều 88 )… thì Tại Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003, Điểm 5 thông tư có quy định rõ ràng và chi tiết hơn nội dung này.
Với tính chất là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hạn chế tự do của người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định, vì vậy việc áp dụng biện pháp tạm giam cần phải tuân theo một trình tự, thủ tục rất chặt chẽ.
Theo quy định của BLTTHS 2003 thì việc tạm giam bị can, bị cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh này phải do những người có thẩm quyền kí. Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản.
Khoản 4 Điều 88 cũng quy định về thủ tục tạm giam “Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết”. Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam, tránh trường hợp nhầm lẫn. Đồng thời cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết để gia đình họ cũng như các cơ quan tổ chức biết được sự việc và không phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm không có căn cứ, gây tốn kém. Điều này hoàn toàn phù hợp vì quyền tự do của người của người bị tạm giam bị ảnh hưởng nên phải có những biện pháp thông báo cho người thân của họ để bảo đảm quyền được thông tin của người bị tam giạm. 
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì tạm giam được áp dụng trong các giai đoạn: Điều tra; truy tố; xét xử. Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo được quy định theo những căn cứ khác nhau phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng để bảo đảm cho cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Ở đây do giới hạn về bài tập học kỳ em sẽ nêu lên thời hạn tạm giam để điều tra, một giai đoạn có tầm quan trọng nhất của quy trình tố tụng hình sự.
Khoản 1 Điều 120 BLTTHS 2003 Thời hạn tạm giam để điều tra quy định: “ Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”  Như vậy, thời hạn tạm giam được xác định theo tính chất tội phạm và tính chất phức tạp của nó để quy định cho phù hợp.
Tuy nhiên trong  trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam. Lúc đó việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng;Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng; Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
Như vậy, thời hạn tạm giam đối với bị can, bị cao đã được luật một cách cụ thể, hợp lý tránh trường hợp quy định quá cao ảnh hưởng đến các  quyền của công dân.
a.     Chế độ tạm giam
Về chế độ của người bị tạm giam được tạm hiểu là các quyền của người tạm giam được quy định tại Điều 89 BLTTHS 2003 cụ thể:
Thứ nhất Chế độ tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. Tạm giam không phải là hình phạt mà là những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Việc áp dụng biện pháp tạm giam không phải nhằm trừng trị người phạm tội ( trước khi bản án có hiệu lực người bị nghi ngờ có liên quan đều được suy đoán vô tội ) mà là để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội.
Thứ hai, nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của Chính phủ.  Người bị tạm giữ, tạm giam không phải chấp hành chế độ của người thi hành hình phạt tù mà là chỉ chấp hành các quy định của Chính phủ về chế độ đi lại, nhận quà, thăm hỏi của gia đình,  liên hệ với gia đình trong thời gian bị tạm giam.
Về chế độ của người tạm giam và tạm giữ được quy định chi tiết tại Nghị định số 89/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 1998 về quy chế tạm giữ, tạm giam.
b.     Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với thân nhân và tài sản của người bị tạm giam.
Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với nhân thân và tài sản của người tạm giam ( và tạm giữ) được quy định tại Điều 90 BLTTHS 2003 như sau:
Khi người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc, thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng.
Sau khi đã áp dụng những biện pháp bảo hộ đối với thân nhân và tài sản, cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo cho người bị tạm giam biết những biện pháp đã được áp dụng.
c.       Việc khấu trừ thời hạn tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt tù
Theo Điều 33 BLHS năm 1999, thời hạn tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ mỗi ngày tạm giam bằng một ngày tù. Quy định này không chỉ áp dụng đối với người bị tạm giam liên tục cho đến khi xét xử mà còn áp dụng đối với cả những người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác sau một thời gian bị tạm giam. Những hình phạt khác không phải là hình phạt tù có thời hạn như cảnh cáo, phạt tiền hoặc tử hình thì không áp dụng quy định này mặc dù trước đó họ có bị tạm giam. Riêng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỉ luật của quân đội và hình phạt tù chung thân thì thời hạn tạm giam sẽ được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Có thể nói việc áp dụng biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự đã góp phần mang lại hiệu quả rất lớn trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm ớ nước ta trong thời gian qua. Nhiều vụ án đã được phá nhanh chóng, kịp thời đáp ứng  nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, các quyền và lợi ích của nhân dân được tôn trọng và bảo vệ. Ở mỗi giai đoạn tố tụng hình sự tạm giam được các cơ quan tố tụng hình sự áp dụng nhằm mục đích đảm bảo cho việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên trên thự tế, việc áp dụng biện pháp tạm giam còn vướng phải những khó khăn, vướng mắc cần được khắc phục. Cụ thể như sau:
a.     Nhiều quy định còn chung chung dẫn đến khó áp dụng
Như quy định tại Điểm b khoản 1 Điều 88 đoạn “ có căn cứ cho rằng người đó có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” ta rất khó xác định được các căn cứ trong trường hợp này; hoặc cũng tại Điểm b Khoản 2 Điều 88 quy định “ cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử” cũng quy định rất chung như vậy rất khó áp dụng trên thực tế...
b.     Vướng mắc trong quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam.
Khoản 3 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định: “Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành”. Đối chiếu qua quy định tại khoản 1 Điều 80 cho thấy ở giai đoạn điều tra Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp có quyền ra lệnh tạm giam, tuy nhiên lệnh tạm giam đó phải được viện kiểm sát phê chuẩn trước khi thi hành. Ngoài ra, trong quá trình điều tra, việc quyết định, hủy bỏ, thay thế biện pháp tạm giam; quyết định việc gia hạn tạm giam cũng đều thuộc thẩm quyền của viện kiểm sát, cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị.
Như vậy, việc quy định cho cơ quan điều tra thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam ở giai đoạn điều tra chỉ mang tính hình thức, còn trên thực tế việc áp dụng, thay thế, hủy bỏ biện pháp tạm giam do viện kiểm sát quyết định.
c.      Tình trạng tạm giam quá thời hạn
Theo quy định của BLTTHS, thời hạn tạm giam được xác định cụ thể ở từng giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn khá nhiều trường hợp tạm giam quá hạn, nhất là ở giai đoạn điều tra đối với một số vụ án có nhiều tình tiết phưc tạp và có nhiều bị can. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người bị tạm giam, gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân vào cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng biện pháp tạm giam.
Ngoài những điểm tích cực thì việc quy định về tạm giam trong BLTTHS trải qua hơn 10 năm có hiệu lực cũng nảy sinh những bất cập nhất định gây khó khăn trong quá trình áp dụng. Để đáp ứng sự thay đổi của thực tiễn cũng như phù hợp với luật pháp trên thế giới Bộ luật tố tụng hình sự năm  2015 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015 tuy chưa có hiệu lực nhưng dựa vào đây chúng ta có thể đánh giá những điểm mới, những điểm tiến bộ hơn so BLTTHS năm  2003 và hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề tạm giam.
a.     Đối tượng  áp dụng
Như đã phân tích trên,  tại điểm b khỏa 1 và điểm b khoản 2 Điều 88 đã quy định rất chung chung các căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam thì tại khoản 2 và khoản 4 Điều 119 BLTTHS năm 2015 đã quy định chi tiết, cụ thể và bổ sung thêm  về vấn đề này cụ thể như sau:
Khoản 2 quy định: Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Ngoài quy định như  khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2003, Khoản 4 Điều 44 BLTTHS 2015 quy định cụ thế và bổ sung quy định đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng, người bị bệnh nặng sẽ áp dụng biện pháp tạm giam khi “c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này”.
Bên cạnh đó, Khoản 3 Điều 199 BLTTHS 2015 còn thêm quy định “Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự  quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã”.
Như vậy, tiến bộ và hoàn thiện hơn so với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể hóa, chi tiết hơn những trường hợp áp dụng đối với các đối tượng bị tam giam. Quy định như thế này tránh trường hợp người áp dụng bị phân vân, lúng túng dẫn tới làm sai, gây vi phạm và hiệu quả công việc được đảm bảo.
b.     Về quy định việc chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giữ, tạm giam
Tại Điều 90 BLTTHS năm 2003 có quy định về  việc chăm nom trong trường hợp người bị tạm giam đang nuôi con dưới 14 tuổi  hoặc có người thân là người tàn tật, ốm yếu  mà không có ai chăm sóc tuy nhiên chỉ quy định chung chung là giao cho chính quyền sở tại chăm nom . Việc quy định như vậy gây khó khăn cho cơ quan có thầm quyển xác định cơ quan sở tại là ai? Là nơi bị can, bị cao đang bị tam giam hay tại địa phương bị can, bị cáo sinh sống...; liệu vấn đề chăm sóc có đảm bảo tốt các quyền mà những người này được nhận hay không... ? Đó là hạn chế lớn của BLTTHS năm 2003 , do vậy khi sữa đổi về vấn đề này, BLTTHS năm 2015  may mắn có hiệu lực cùng lúc với luật Luật  thi hành tạm giữ, tạm giam theo đó tại Điều 120 quy định ... Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là con của người bị tạm giữ, tạm giam thực hiện theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.” Như vậy, có thể thấy việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là con của người bị tạm giam được tách riêng ra, điều này có lợi cho người bị tam giam vì bảo đảm quyền lợi của con người bị tạm giữ, tạm giam hơn so với luật cũ.
c.      Thời hạn tạm giam để điều tra 
Khoản 1 Điều 120 BLTTHS năm 2003 và Khoản 1 BLTTHS năm 2015 đều quy định giống nhau về thời hạn tạm giam để điều tra. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 173 BLTTHS năm 2015 quy định về việc gia hạn tạm giam có sự thay đổi so với năm 2003 cụ thể là:  “Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng; Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng; Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng; Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng”.
Với việc sửa đổi quy định nêu trên, chúng ta thấy rõ thời hạn tạm giam để điều tra theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được rút ngắn. Điều đó thể hiện quan điểm của Nhà nước ta, thể chế hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013 là tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Như  vậy, so với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2005 đã khắc phục được một số thiếu sót, bất cập đối với quy định về chế định tạm giam, qua đó bổ sung,  hoàn thiện hơn về chế định này, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án đạt được hiệu quả cao trên thực tiễn thi hành án.

KẾT THÚC

Tạm giam là một biện pháp trong số những biện pháp ngăn chặn ban đầu nhằm mục đích ngăn chặn, ngăn ngừa hành vi bỏ trốn hoặc cản trở cho quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên do tính nghiêm khắc của biện pháp nên cá nhân, cơ quan có thẩm quyền cần áp dụng nó một cách cân nhắc và kỹ lưỡng trong quá trình xử lý vụ án. Hy vọng trong tương lai các nhà làm luật có thể khắc phục những bất cập và hoàn thiện hơn về chế định tạm giam, để nó thực sự là một biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tội phạm. 

Related Post

Previous
Next Post »